Lượt xem: 12771

Đạo đức công vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và có giá trị sâu sắc, không chỉ về mặt lý luận mà còn trong thực tiễn cuộc sống, nhất là trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta, là tài sản tinh thần to lớn của dân tộc ta, luôn luôn tỏa sáng, luôn mới trong mọi thời đại. Trong những giá trị tư tưởng đã trở thành hệ thống ấy, có những điều thật lớn lao về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc…, nhưng cũng có những điều hết sức bình dị, mà lại sâu sắc dành cho tất cả mọi người, cho từng con người trong xã hội.

    Trong khuôn khổ của bài viết này, xin được trình bày một cách khái quát lý luận chung về đạo đức công vụ, nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ, từ đó vận dụng tư tưởng của Người vào cơ quan, đơn vị và từng cá nhân hiện nay.

    Trước hết, nói về đạo đức công vụ, đạo đức công vụ là những hành vi, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, công chức được thể hiện qua công việc hàng ngày. Đạo đức công vụ được bao hàm trong đạo đức cách mạng và cần có những quy tắc, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức bắt buộc mỗi cán bộ, công chức phải tuân thủ.

    Tùy theo đặc điểm văn hóa, tâm lý, xã hội... mỗi nước có những chuẩn mực đạo đức công vụ riêng. Mặt khác, do đặc trưng mỗi công việc trong nền công vụ khác nhau, hệ giá trị mà mỗi nghề nghiệp hướng tới là không giống nhau nên chuẩn mực đạo đức của mỗi nghề sẽ khác nhau trong những tiêu chí cụ thể hoặc mức độ yêu cầu đối với mỗi chuẩn mực có thứ bậc ưu tiên khác nhau.


Nguồn bqllang.gov.vn

 

    Riêng đối với nước ta, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận ý tưởng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thiết lập một nền công vụ mạnh mẽ, sáng suốt của dân, hoạt động vì Nhân dân và chịu sự kiểm soát, bãi miễn của Nhân dân; một nền công vụ hiện đại, dân chủ, có hiệu lực từ Trung ương đến cơ sở. Ngay từ khi ra đời, nền công vụ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được xây dựng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một nền công vụ dân chủ, thân dân, trọng dân, quý dân. Nền công vụ ấy đã thể hiện rõ vai trò quản lý, điều tiết có hiệu quả các hoạt động của từng vùng ở từng thời kỳ lịch sử khác nhau và cho đến hôm nay, khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập quốc tế thì những lời dạy của Hồ Chí Minh về một nền công vụ vì dân vẫn còn nguyên giá trị.

    Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức công vụ được thể hiện trong những nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực cơ bản sau:

    Một là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

    Bác cho rằng “…để giúp công việc Chính phủ một cách đắc lực, để nâng cao tinh thần kháng chiến, anh em viên chức bây giờ phải có 4 đức tính là: Cần, kiệm, liêm, chính” và Người dặn thêm “có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được”(1). Người cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, tức là từ sự đóng góp của nhân dân. Nhân dân trả công cho cán bộ để phục vụ họ thì cán bộ phải cố gắng làm để phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhân dân, đúng như Bác căn dặn: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính”(2).

    Sâu hơn một chút, ta thấy Bác chỉ rõ: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá”. Chính “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: Không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

    Và Người khẳng định: Một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính “là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Theo Người, sở dĩ có nạn tham ô và lãng phí là do bệnh quan liêu. Vì mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ mà tham ô, lãng phí. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu đi liền với nhau, trong đó quan liêu tạo điều kiện cho tham ô, lãng phí nảy nở và phát triển. Vì vậy, phải chống quan liêu, phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân, phải thực hành phê bình và tự phê bình, phải làm kiểu mẫu: cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

    Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Theo Người, “Những đức tính mà đã là cán bộ cần phải có: Không tự kiêu, không có cái bệnh làm “quan cách mạng”; phải siêng năng: siêng nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm; cầu tiến bộ luôn luôn, không lúc nào ngừng nghiên cứu, tự luyện, sửa chữa những khuyết điểm; trung thành với mục đích cách mạng: giữ cho nước nhà được độc lập, nòi giống được tự do”(3) và “tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”(4).

    Đồng thời, Người nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của Nhân dân”. Cán bộ, đảng viên phải thực sự là những người có đạo đức cách mạng, phải có những phẩm chất chung, cơ bản nhất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng. Tư tưởng ấy của Người đã soi sáng cho cả dân tộc Việt Nam bước qua gian lao và đánh thắng kẻ thù xâm lược. Tư tưởng đó đã giúp cho Đảng và dân gần nhau hơn, khẳng định chân lý “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Bác luôn yêu thương con người bằng tình cảm rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Tình thương đó còn thể hiện sự bao dung, sẵn sàng thứ tha cho những ai đã nhận rõ khuyết điểm, sai lầm và quyết tâm sửa chữa. Và, cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ mật thiết với chí công vô tư; khi đã thực hiện được những điều ấy thì nhất định sẽ có thêm nhiều tính tốt khác, khuyết điểm sẽ ngày càng ít đi. Tựu trung lại, mỗi người cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc việc nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; thực hiện xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đây là những điều cơ bản nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, về những gì cán bộ, đảng viên phải phấn đấu thực hiện cho bằng được. Tư tưởng đó có giá trị rất lớn, là ánh đuốc soi đường trong mọi thời đại, cho tất cả cán bộ, đảng viên, nhất là trong thời kỳ hiện nay, khi chúng ta đang ra sức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

    Hai là, phải có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.

    “Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”. “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm”(5). Người giải thích: “Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm”(6). Và trong công việc, người cán bộ còn phải biết kiên trì và nhẫn nại. Là cán bộ không nên suy bì xem công việc của mình có quan trọng hay không. Công việc nào cũng cần thiết đối với cách mạng. Vấn đề là ở chỗ khi đã làm việc gì dù gặp khó khăn, trở ngại cũng phải quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ (7).

    Ba là, chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ.

    Mỗi người phải chấp hành nghiêm những quy định của cơ quan, của tổ chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là ta được họ yêu mến. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ cần phải gương mẫu về đạo đức, tự giác tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp công tác, tránh được những cám dỗ. Tinh thần sáng tạo trong công việc cũng là một chuẩn mực đạo đức mà người cán bộ phải phát huy. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ phụ trách phải theo đường lối chung nhưng cũng phải suy nghĩ tìm tòi, có những sáng kiến riêng của mình, theo tinh thần “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, như thế công việc mới “chạy” được: “Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, quyết làm cho thành công”

    Bốn là, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận ra một quy luật mà người cán bộ, công chức rất dễ vướng phải, đó là phải “Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu”.

    Theo Người, “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng ngày càng tiến... Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”. Tinh thần cầu tiến bộ, học tập không ngừng là một yêu cầu cao đối với mỗi cán bộ, công chức. “Mỗi một đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ, phải nhớ lấy câu nói của ông thầy chúng ta. Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ thêm”.

    Năm là, có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc.

    Bác chỉ rõ: “Đối với đồng chí mình phải thế nào? Thân ái với nhau, nhưng không che đậy những điều dở. Học cái hay sửa chữa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị”; “Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới”. Nếu trong một tập thể mà các thành viên có thành kiến với nhau, dè dặt, đối phó với nhau, kèn cựa lẫn nhau thì “nó làm cho trống đánh xuôi kèn thổi ngược, nó làm cho công tác bị tê liệt, hư hỏng”. Tuy nhiên, thân ái, hợp tác ở đây không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi hành công vụ và trong cuộc sống.


Mô hình “Ngày thứ ba không viết” ở xã Thạnh Phú. Ảnh Thiện Nhận

 

    Người căn dặn chúng ta: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở…”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải “Trung với nước, hiếu với dân”, “luôn yêu thương con người”. Đó chính là phẩm chất đạo đức cộng sản của người cán bộ chân chính.

    Từ năm chuẩn mực cơ bản nêu trên, việc vận dụng cho từng người, từng cơ quan, đơn vị lại là một vấn đề đáng quan tâm. Đạo đức công chức thể hiện tính dân chủ trong công vụ mà công chức thực hiện đối với dân. Sự không thiên vị, vô tư và trong sáng chắc chắn sẽ làm cho người dân tin hơn vào Chính phủ, vào Nhà nước và ngược lại.

    Hàng thập kỷ đã trôi qua, cùng với sự biến thiên của lịch sử, chúng ta đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, nhưng những lời dạy của Bác về đạo đức công vụ; đạo đức người cán bộ cách mạng vẫn vẹn nguyên giá trị. Yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay là phải đạt mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Với ý nghĩa đó, đạo đức công chức cần được chuẩn mực trở thành bắt buộc mang tính nguyên tắc dựa trên pháp luật. Đặc biệt là phải liêm khiết, có lương tâm, công minh và dũng cảm.

    Đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được thể hiện qua hành động, việc làm của họ hàng ngày với nhiệm vụ được phân công; đó chính là tấm gương phản chiếu tư cách cá nhân một con người phục vụ cho Chính phủ và nhân dân; là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, ngoài năng lực, người công chức phải thực sự là những người có tư cách đạo đức tốt. Bởi lẽ, như Bác nói, “Quần chúng chỉ quí mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” và “bất kỳ địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân”./.

Anh Khoa



(1) Lời khuyên anh em viên chức, 17-01-1946. HCM toàn tập, t.4, tr.158.

(2) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr. 392.

(3) Lời phát biểu tại lễ tốt nghiệp khóa học thứ tư Trường quân chính Việt Nam, 1-10-1945. HCM toàn tập, t.4, tr.34.

(4) Sửa đổi lối làm việc, tháng 10-1947. HCM Toàn tập, t.5, tr. 251 – 252.

(5) Hồ Chí Minh: Sđd , tập 6, tr 346.

(6) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 6, tr 345

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 5, tr 644.



Phim tư liệu
  • Phát biểu của đồng chí Lâm Tấn Hòa
  • Ngày hội văn hóa thể thao du lịch đông bào Khmer Nam bộ và Lễ hội Óoc-Om-Bóc Đua ghe Ngo 2022
  • Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ Hai - năm 2022
1 2 3 4 5  ... 


No title... No title... No title...
Thống kê truy cập
  • Đang online: 156
  • Hôm nay: 8084
  • Trong tuần: 90,400
  • Tất cả: 11,452,640