Trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến dân vận và công tác dân vận. Người luôn nhận thức rằng: “Lực lượng của dân rất to...”; “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”(2). “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó”(3). Từ đó, Người khẳng định một nguyên lý sâu sắc: Có dân là có tất cả, mất dân là mất hết, “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”(4). Tuy nhân dân có sức mạnh to lớn như vậy, nhưng nếu không có sự tập hợp, dẫn dắt và lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản thì mọi phong trào của quần chúng nhân dân chỉ là phong trào tự phát.
Công tác dân vận được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mỗi giai đoạn, mỗi lĩnh vực khác nhau, công tác dân vận có nội dung, phương thức khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu tập hợp, vận động, phát huy cao nhất sức mạnh các tầng lớp nhân dân vào các phong trào cách mạng, thi đua yêu nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu chung của Đảng, đất nước và dân tộc. Nếu thiếu hoặc làm không tốt công tác dân vận, Đảng sẽ không tập hợp được quần chúng làm cách mạng. Do đó, Đảng phải làm tốt công tác dân vận, tức là tiến hành công tác tuyên truyền, vận động để mọi người dân giác ngộ, tự nguyện làm tốt bổn phận và trách nhiệm của mình, có vậy thì mới huy động được sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân. “Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”(5). Nếu không làm tốt công tác dân vận, thì không những không phát huy được sức mạnh của toàn dân mà còn bị kẻ thù chống phá, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến lúc ấy dù việc nhỏ đến mấy thì cũng không thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Kinh nghiệm trong nước và các nước cho chúng ta biết: Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”(6). Từ đó, Người khẳng định: “Có dân là có tất cả”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Do đó, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ công tác vận động, giác ngộ quần chúng là công tác quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành bại của cách mạng.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Sự thành bại của cách mạng cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng gắn liền với năng lực tiến hành công tác dân vận của Đảng và mức độ quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI chỉ rõ: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”(7). Do đó, mỗi nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đều có các nghị quyết về công tác dân vận để định hướng lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này. Nhờ đó, công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị đối với công tác dân vận được nâng cao, góp phần củng cố quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng hiện nay ở đa số các tổ chức đảng có những nhìn nhận, đánh giá chung chung, gần giống nhau, như: Công tác dân vận tiếp tục được đổi mới; mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân tiếp tục được củng cố; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện, nâng cao... Song, một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa coi trọng công tác vận động quần chúng; việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong các loại hình tổ chức đảng có nơi còn mang tính hình thức; công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chung chung, gập khuôn với mọi đối tượng quần chúng nên chưa tạo sự đồng thuận cao trong việc thực hiện các chủ trương, dự án phát triển tại địa phương; công tác tuyên truyền gương điển hình là tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng có lúc chưa được quan tâm đúng mức ...
Sở dĩ có sự đánh giá “đúng” nhưng đôi khi “chưa trúng” như trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu và trước hết là do chưa có tiêu chí làm cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới. Nên mọi sự đánh giá thực trạng công tác dân vận tưởng là “OK” như trên, nhưng những ưu điểm, hạn chế, yếu kém của công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị các cấp được lặp đi lặp lại trong nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng, dẫn đến có ý kiến nhận xét: “biết rồi, nói mãi”. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng hệ tiêu chí chung làm cơ sở cho tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của mình.
Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị các cấp là tổng hợp kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra; mức độ đạt được về lãnh đạo, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức, hội, đoàn thể của Đảng, phù hợp với thực tiễn. Từ nhận thức đó, có thể đưa ra hệ tiêu chí như sau:
Thứ nhất, mức độ hiểu biết, đồng thuận của nhân dân với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước và các dự án đầu tư phát triển tại địa phương; sự tự giác, phấn khởi và hăng hái của các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Đây là tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong các tầng lớp nhân dân. Nó biểu hiện sự thống nhất giữa hiểu biết với niềm tin và hành động của người dân theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được thực hiện nghiêm túc. Nhờ đó, nhân dân sẽ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẽ bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ chế độ, hăng hái thực hiện mọi cuộc vận động, mọi phong trào thi đua yêu nước vừa vì sự nghiệp chung, vừa đem lại lợi ích thiết thân cho mình.
Thứ hai, kinh tế phát triển đi đôi với thực hiện an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; xây dựng cơ chế, giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo ra môi trường thuận lợi để khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, cạnh tranh lành mạnh trong đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể có những việc làm cụ thể hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn, tàn tật, người già neo đơn, trẻ mồ côi, khuyết tật.
Thứ ba, các giai cấp, dân tộc, tín đồ các tôn giáo được tập hợp rộng rải vào các tổ chức thích hợp theo quy định của Nhà nước; sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc được phát huy; dân chủ cơ sở được thực hiện; an ninh trật tự ở cơ quan, khu dân cư và trên phạm vi địa phương được giữ vững, không có “điểm nóng” xảy ra trên địa bàn. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, chính quyền với nhân dân được củng cố và trở thành một trong những động lực của phát triển. Đây là trọng tâm mấu chốt làm căn cứ đánh giá hiệu quả công tác dân vận hiện nay.
Thứ tư, các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ, ngành phát động, như: Phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”; Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, "Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường" ... được triển khai đồng bộ, với nhiều biện pháp, giải pháp cụ thể, phù hợp, mang lại hiệu quả thiết thực, tạo không khí thi đua sôi nổi, được các cơ quan, tổ chức và nhân dân tích cực hưởng ứng, tham gia.
Thứ năm, mức độ hài lòng của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, chính quyền các cấp; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân trở thành nền tảng, động lực phát triển. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên ngày càng được nâng lên; tổ chức đảng được công nhận “trong sạch, vững mạnh”, chính quyền được đánh giá hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được công nhận “vững mạnh toàn diện”. Đây được xem là tiêu chí chung nhất, bao trùm đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong tình hình hiện nay.
Những tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay nêu trên thể hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể trong xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, những tiêu chí này cần cụ thể hóa phù hợp nhiệm vụ chính trị và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tuyệt đối không được áp dụng một cách rập khuôn, máy móc./.
Kiên Trung
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG ST, Hi, 2011, tr.234.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. CTQG ST, H.2011 tr.544.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG ST, H, 2011, tr.19.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb. CTQG ST, H, 2011, tr.142.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. CTQG ST, H, 2000, tr.197.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG ST, H, 2011, tr.335.
(7) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb. CTQG, H.2013, tr.36.