* Thực trạng và nguyên nhân
Chương trình số 59-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sóc Trăng đánh giá, trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển giáo dục nghề nghiệp; nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân về vị trí, vai trò của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn có sự thay đổi tích cực. Công tác đào tạo nghề cho người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, lao động nữ, các đối tượng chính sách được chú trọng. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh được sắp xếp tinh gọn, phát huy hiệu quả hoạt động. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 19 cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp với cơ sở vật chất, trang thiết bị, chương trình, giáo trình đào tạo, đội ngũ quản lý, giảng viên, giáo viên,… đủ điều kiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp từ trình độ dưới 3 tháng đến trình độ cao đẳng.

Lớp đào tạo nghề may dân dụng tại Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Mỹ Tú.
Bên cạnh đó, nguồn lực đào tạo nghề cho lao động nông thôn cơ bản được duy trì qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Công tác đào tạo nghề cơ bản phù hợp với nhu cầu người học, gắn kết với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và xây dựng nông thôn mới; tỷ lệ có việc làm sau đào tạo bình quân trên 85%/năm, thu nhập bình quân từ 5 - 8 triệu đồng/tháng. Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn đã góp phần tích cực trong việc nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn tỉnh; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm nghèo bền vững; rút ngắn thời gian thực hiện các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới; đồng thời, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, một số địa phương chưa xác định được ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn để phù hợp với phát triển kinh tế ở địa phương, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Lao động nông thôn chủ yếu được học nghề ở trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng; chất lượng đào tạo đạt hiệu quả chưa cao; hoạt động hỗ trợ người dân sau khi học nghề chưa được triển khai hiệu quả. Việc quản lý nguồn kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ dạy nghề, dạy nghề cho lao động nông thôn còn chưa tập trung. Công tác kiện toàn cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp từng lúc còn chậm; điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ quản lý, giáo viên,... của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Công tác phân luồng, hướng nghiệp cho học sinh chưa thật sự hiệu quả; việc điều tra, khảo sát, dự báo nhu cầu tuyển dụng, nhu cầu học nghề chưa kịp thời, chưa dự báo tốt nơi làm việc, mức thu nhập của việc làm, thiếu tính định hướng lâu dài cho công tác dạy nghề. Công tác xã hội hóa trong dạy nghề, dạy nghề cho lao động nông thôn tại một số địa phương chậm được thực hiện...
Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu là do một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của công tác dạy nghề cho lao động nông thôn. Công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, giải quyết việc làm chưa được chú trọng; việc tư vấn, phổ biến, hướng dẫn cho lao động nông thôn lựa chọn, tham gia học nghề còn hạn chế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương chưa đồng bộ, hiệu quả. Đa số cán bộ làm công tác quản lý đào tạo nghề ở cấp huyện, cấp xã chủ yếu là kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo nghề và giới thiệu việc làm. Đại bộ phận lao động nông thôn còn duy trì tập quán, thói quen canh tác, sản xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm nên vẫn còn nhiều lao động nông thôn không muốn tham gia học tập, bồi dưỡng ngành nghề. Các ngành, nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp mặc dù rất phát triển nhưng dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, giá cả,..., chưa tạo được nhiều việc làm tại chỗ, thu nhập ổn định cho người lao động ở nông thôn. Mối liên kết, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp chưa được phổ biến chặt chẽ...
* Mục đích, yêu cầu
Chương trình số 59-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sóc Trăng đưa ra mục đích là cụ thể hóa và triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 10/7/2024 của Ban Bí thư; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và người dân về vị trí, vai trò của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, góp phần đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các ngành, các cấp, người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính quyền và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đối với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tổ chức quán triệt phù hợp với từng đối tượng, thành phần, từng cấp, từng ngành nhằm giúp cho cán bộ, đảng viên và người dân nắm vững, hiểu rõ nội dung cơ bản của Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 10/7/2024 của Ban Bí thư, bảo đảm nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức. Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, cụ thể hóa nội dung Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 10/7/2024 của Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Chương trình số 59-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy hướng đến mục tiêu tổng quát là thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2030, nhằm tạo đột phá về đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ, kỹ năng nghề đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh, của đất nước.
Theo đó, mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2025: (1) Hằng năm, tuyển sinh, đào tạo khoảng 16.000 người; trong đó, có 25% số lao động được đào tạo thuộc nhóm ngành dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp lợi thế của tỉnh; trên 90% lao động sau đào tạo có việc làm; 65% người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động được đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. (2) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 65%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 32,5%. (3) Hoàn thành việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các phần mềm ứng dụng, hệ thống kết nối, chia sẻ tích hợp dữ liệu và thực hiện chuyển đổi, chuẩn hoá cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động. Phấn đấu đến năm 2030: (1) Tuyển mới đào tạo nghề tối thiểu khoảng 18.000 người/năm; đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động. (2) Số lao động được đào tạo nghề thuộc nhóm ngành du lịch, công nghiệp, nông nghiệp lợi thế của tỉnh chiếm 30%. (3) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 35%. Tầm nhìn đến năm 2045 là tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao, tiếp cận trình độ tay nghề của doanh nghiệp, thị trường lao động trong và ngoài tỉnh, các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
* Nhiệm vụ và giải pháp
Thứ nhất, tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Các cấp ủy Đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 10/7/2024 của Ban Bí thư; xem đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài. Khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ; bảo đảm an ninh lương thực, tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức xã hội về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn và sự chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, người dân về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tới phát triển kinh tế nông nghiệp, cơ cấu ngành nghề và trình độ sản xuất tại khu vực nông thôn; quảng bá, nhân rộng những mô hình hay, điển hình tốt sau đào tạo.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với giải quyết việc làm sau đào tạo. Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn; cập nhật nghề, chuẩn hóa nội dung đào tạo, kiểm định chất lượng chương trình đào tạo; tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp, kiến thức về an toàn vệ sinh lao động, kinh doanh, khởi nghiệp, các kỹ năng mềm và đổi mới sáng tạo cho lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Các chị em tại Phường 3, thị xã Ngã Năm học nghề đan đác
Coi trọng thực hành, nhất là từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong tất cả các khâu của quá trình đào tạo; nghiên cứu tổ chức đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp theo hướng mở, linh hoạt phù hợp với địa phương và học viên.
Phát huy tính chủ động của học viên, gắn kết đào tạo nghề với học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập ở khu vực nông thôn, góp phần xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, có ý chí, khát vọng xây dựng quê hương đất nước phồn vinh, hạnh phúc; có trình độ học vấn, năng lực đổi mới sáng tạo và tổ chức sản xuất tiên tiến, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Đổi mới căn bản công tác hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục phổ thông phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư vấn học nghề; tập trung đào tạo lại nguồn nhân lực nông thôn, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, gắn với bảo tồn, phát huy không gian văn hóa khu vực nông thôn; tận dụng lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thích ứng với quá trình đô thị hóa, già hóa dân số và biến đổi khí hậu, góp phần xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý Nhà nước về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, nhất là người đứng đầu phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; tăng cường kiểm tra, giám sát, coi trọng chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng kế hoạch đào tạo nghề phù hợp với thị trường lao động, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu học nghề, việc làm của người dân, gắn với bảo tồn, phát huy không gian văn hóa, tiềm năng du lịch khu vực nông thôn; tổ chức đào tạo nghề gắn với mô hình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, hướng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất vi mô lớn.
Hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước; xây dựng các mô hình kết nối giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động ở từng địa phương; xây dựng chính sách đột phá trong phát triển nhân lực, cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn; nghiên cứu, triển khai chương trình, ban hành chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2030, gắn với thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2030.
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; ưu tiên đào tạo nghề cho lao động thuộc diện đối tượng chính sách, người có công, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật; quan tâm đào tạo nghề cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở chuyển sang học nghề; khuyến khích hoạt động vừa tổ chức học nghề kết hợp học văn hóa phổ thông để nâng cao kiến thức văn hóa và nâng cao kỹ năng nghề cho học sinh, sinh viên trước khi tham gia thị trường lao động, đặc biệt là lao động trong các khu công nghiệp, bộ đội xuất ngũ, người cao tuổi còn đủ sức khỏe có nhu cầu tham gia thị trường lao động.
Huy động sự tham gia, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo
Tận dụng hiệu quả cơ hội cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng số cho người dân, góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số khu vực nông thôn và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại, phù hợp với nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao; thúc đẩy tích hợp đa giá trị, nâng cao giá trị gia tăng, phát huy lợi thế của từng địa phương; có chính sách đầu tư, hỗ trợ cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế tập thể khu vực nông thôn; triển khai các chương trình, đề án đào tạo, đào tạo lại phục vụ chuyển đổi nghề cho người dân do biến đổi khí hậu và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ năm, tăng cường huy động và gắn kết các nguồn lực đầu tư công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Bảo đảm mọi nguồn lực, các điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; hoàn thiện chính sách hỗ trợ đào tạo cho lao động nông thôn, nhất là hỗ trợ về vốn, phương tiện sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giới thiệu việc làm sau đào tạo.
Thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho công tác đào tạo nghề, nhất là ở những ngành nghề, nơi có điều kiện phát triển; khuyến khích tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tiếp tục đầu tư đồng bộ, bảo đảm cơ sở vật chất cho đào tạo nghề, nhất là những nghề gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thứ sáu, chuẩn hoá và phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp có chất lượng; huy động sự tham gia của các nhà khoa học, các nghệ nhân, doanh nhân, người sản xuất giỏi, lao động có tay nghề cao tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo giáo dục nghề nghiệp; cử cán bộ quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp các cấp, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng quản lý, quản trị cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các khóa bồi dưỡng về kỹ năng quản lý - quản trị hiện đại, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, trình độ ngoại ngữ,...
Nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác kiểm định, đảm bảo chất lượng tại các các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo tại doanh nghiệp.
Hồng Nhi